Luật sư tư vấn

Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn. Tuy nhiên trong thời gian vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, chồng không được ly hôn.

Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình cho phép nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì tòa án giải quyết việc ly hôn.

Về ly hôn theo yêu cầu của một bên (thường được gọi là đơn phương ly hôn), khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhan và Gia đình quy định: Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại tòa án không thành thì tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Như vậy, pháp luật về hôn nhân và gia đình không bắt buộc vợ, chồng phải trả hết các khoản nợ mới được xem xét cho ly hôn.

Sau ly hôn hai người có nghĩa vụ như nhau trong việc trả nợ, trừ trường hợp vợ chồng và chủ nợ (ngân hàng) có thỏa thuận khác (khoản 1 Điều 60 Luật Hôn nhân và Gia đình).

Trường hợp vợ chồng có tranh chấp về việc trả nợ cho ngân hàng thì một trong các bên có quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc phân chia (về nguyên tắc khoản nợ chung được chia đôi, trừ trường hợp các bên và chủ nợ có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác).

  Khi tòa án giải quyết tranh chấp, ngân hàng sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

Theo vnexpress